Keyword

GIS

3 record(s)
 
From 1 - 3 / 3
  • Hiện nay, các phương pháp phân tích sử dụng dữ liệu vector được sử dụng phổ biến trong các ứng dụng GIS về quy hoạch, quản lý đất đai, khoáng sản,...Trong đó, phần mềm URSCAPE cung cấp một số chức năn truy vấn, phân tích và trực quan hóa dữ liệu cũng như cho phép trao đổi dữ liệu với các hệ thống khác mà không đòi hỏi người dùng có kiến thức chuyên môn sâu về về các phần mềm chuyên ngành khác như Arcmap, Microstation,...Ưu điểm của URSCAPE là không yêu cầu máy tính có tốc độ cao, cấu hình quá mạnh để vận hành, dễ cài đặt và sử dụng, rất mạnh về phân tích và trực quan hóa dữ liệu, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng. Ngày 7 tháng 12 năm 2021, Trung tâm Ứng dụng Hệ thống thông tin địa lý Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức "Hội thảo đào tạo sử dụng kết quả đề tài "Nghiên cứu, thử nghiệm ứng dụng URSCAPE để phục vụ hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu tài nguyên và môi trường". Nội dung buổi hội thảo tập trung vào các nội dung chính sau đây: - Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng URSCAPE để hỗ trợ ra quyết định bằng phương pháp trực quan hóa và mô phỏng dựa trên dữ liệu kgông gian địa lý đã được chuẩn hóa, chuyển đổi để đưa vào ứng dụng này; - Xây dựng hệ thống tích hợp dữ liệu không gian đa nguồn gốc hỗ trợ ra quyết định quản lý đô thị trên cơ sở các phương pháp trực quan hóa, mô phỏng và phân tích địa lý; - Tham khảo ý kiến đánh giá của người dùng về ưu điểm và nhược điểm từ đó đề xuất hướng phát triển cho các công cụ của URSCAPE.

  • Sự phát triển không ngừng của ngành đo đạc và bản đồ trong thời gian qua có sự đóng góp không nhỏ của nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng mục tiêu cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ và hiệu quả các sản phẩm của đo đạc bản đồ và thông tin địa lý phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực trong ngành tài nguyên và môi trường nói riêng và các bộ ngành,địa phương và xã hội nói chung. Công nghê đo đạc bản đồ của Việt Nam đang bắt kịp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử. Ở nước ta, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước đã sớm nhận thấy tầm quan trọng và những lợi ích to lớn từ dữ liệu không gian địa lý mang lại. Nhiều năm qua, các Bộ, ngành nói chung và ngành tài nguyên và môi trường nói riêng đã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống dữ liệu không gian địa lý phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Luật Đo đạc và bản đồ ngày 14 tháng 6 năm 2018, Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ đã quy định nội dung và một số nhiệm vụ cơ bản về hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia, bao gồm: xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch triển khai thực hiện; chính sách, nguồn lực để xây dựng, phát triển; công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng, tích hợp dữ liệu không gian địa lý; xây dựng, vận hành Cổng thông tin không gian địa lý Việt Nam. Ngày 23 tháng 11 năm 2021, Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ tổ chức Hội thảo khoa học và công nghệ toàn quốc “Nghiên cứu ứng dụng phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia, vai trò của công nghệ đo đạc bản đồ hiện đại.

  • Categories      

    Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ vừa nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ xây dựng quy định về chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ”. Đây là đề tài nghiên cứu quan trọng góp phần xây dựng hệ thống văn bản pháp lý đủ mạnh quản lý hoạt động chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc bản đồ còn rất mới mẻ tại Việt Nam. Theo TS. Đồng Thị Bích Phương, Chủ nhiệm đề tài, đề tài đã khảo sát, đánh giá các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển và các nước có điều kiện tương tự Việt Nam về chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc bản đồ và thông tin địa lý; phân tích, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ; khảo sát thực tế chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ và điều tra nhu cầu người dùng. Sau khi triển khai nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã xác định các giải pháp tổ chức, tài chính, kỹ thuật và sở hữu trí tuệ để đảm bảo chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đồng thời, xây dựng Dự thảo quy định về chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ. Theo đó, các giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra quản lý hoạt động chia sẻ dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ phù hợp với điều kiện hiện tại, đó là: Xây dựng Hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia bao gồm chính sách, thể chế, tiêu chuẩn, công nghệ, dữ liệu và nguồn lực để đảm bảo chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu không gian địa lý nói chung và dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ nói riêng. Bên cạnh đó, Nhà nước đầu tư cho thu nhận, cập nhật, quản lý, cung cấp, chia sẻ dữ liệu, sản phẩm đo đạc cơ bản và chuyên ngành trên nguyên tắc hiệu quả, tránh lãng phí, đủ đáp ứng các nhu cầu phát triển. Đặc biệt, thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ phải được thu nhận, cập nhật, cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời; được quản lý đảm bảo sử dụng lâu dài và khai thác, chia sẻ thuận tiện. Viện trưởng Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ Nguyễn Phi Sơn đánh giá: Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở phục vụ xây dựng Nghị định và các quy định về chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ khoa học, phù hợp với thực tế để đáp ứng các yêu cầu quản lý Nhà nước, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động đo đạc và bản đồ. Theo ông Nguyễn Phi Sơn, hoạt động đo đạc và bản đồ đang được thực hiện ở rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau như: quy hoạch lãnh thổ, giao thông, xây dựng, thủy lợi, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý đất đai, giáo dục đào tạo, địa chất, bảo vệ môi trường, du lịch, truyền thông, an ninh quốc phòng... Vì vậy, các quy định về chia sẻ, sử dụng chung dữ liệu đo đạc và bản đồ khoa học, phù hợp với thực tế để đáp ứng các yêu cầu quản lý Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động đo đạc và bản đồ của các ngành, các lĩnh vực liên quan góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu an ninh quốc phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.