Available actions
Topics
Years
Formats
Representation types
Update frequencies
status
Scale
-
Sự phát triển không ngừng của ngành đo đạc và bản đồ trong thời gian qua có sự đóng góp không nhỏ của nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng mục tiêu cung cấp kịp thời, chính xác, đầy đủ và hiệu quả các sản phẩm của đo đạc bản đồ và thông tin địa lý phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực trong ngành tài nguyên và môi trường nói riêng và các bộ ngành,địa phương và xã hội nói chung. Công nghê đo đạc bản đồ của Việt Nam đang bắt kịp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử. Ở nước ta, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước đã sớm nhận thấy tầm quan trọng và những lợi ích to lớn từ dữ liệu không gian địa lý mang lại. Nhiều năm qua, các Bộ, ngành nói chung và ngành tài nguyên và môi trường nói riêng đã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống dữ liệu không gian địa lý phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Luật Đo đạc và bản đồ ngày 14 tháng 6 năm 2018, Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ đã quy định nội dung và một số nhiệm vụ cơ bản về hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia, bao gồm: xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch triển khai thực hiện; chính sách, nguồn lực để xây dựng, phát triển; công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng, tích hợp dữ liệu không gian địa lý; xây dựng, vận hành Cổng thông tin không gian địa lý Việt Nam. Ngày 23 tháng 11 năm 2021, Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ tổ chức Hội thảo khoa học và công nghệ toàn quốc “Nghiên cứu ứng dụng phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia, vai trò của công nghệ đo đạc bản đồ hiện đại.
-
Việc phát hiện ra vi nhựa trong không khí trên đại dương cho thấy sự lây lan của ô nhiễm nguy hiểm này. Khi nhựa trong đại dương của chúng ta vỡ ra thành các mảnh nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa mà không bị phân hủy về mặt hóa học, các vi nhựa được tạo thành đang trở thành một vấn đề sinh thái nghiêm trọng. Một nghiên cứu mới tại Viện Khoa học Weizmann cho thấy một khía cạnh đáng lo ngại của vi nhựa (được định nghĩa là các hạt có đường kính nhỏ hơn 5mm), chúng bị cuốn vào bầu khí quyển và theo gió đến những vùng xa xôi của đại dương. Phân tích cho thấy những mảnh vụn nhỏ như vậy có thể tồn tại trong không khí trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày, phát tán khả năng gây hại cho môi trường biển, cũng như xâm nhập vào chuỗi thức ăn gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Tiến sĩ Miri Trainic, trong nhóm nghiên cứu của Giáo sư Ilan Koren từ Phòng Khoa học Trái đất và Hành tinh, phối hợp với Giáo sư Yinon Rudich và Giáo sư Assaf Vardi từ Phòng Khoa học Cây trồng và Môi trường của Viện Khoa học Weizmann cho biết: “Một số nghiên cứu đã tìm thấy vi nhựa trong khí quyển ngay trên mặt nước gần bờ biển... Nhưng chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy một lượng vi nhựa không hề nhỏ bên trên khu vực mặt nước tưởng như nguyên sơ”. Giáo sư Koren và Giáo sư Vardi đã hợp tác với nhau trong các nghiên cứu tìm hiểu sự tương tác giữa đại dương và không khí. Trong khi cách các đại dương hấp thụ vật chất từ khí quyển đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, quá trình theo hướng ngược lại – các sol khí (aerosol) trong đó có các chất bay hơi, vi rút, mảnh tảo và các hạt khác bị cuốn từ nước biển vào khí quyển – lại ít được nghiên cứu hơn nhiều. Là một phần của nỗ lực không ngừng này, các mẫu aerosol đã được thu thập để nghiên cứu bằng tàu nghiên cứu khoa học Tara vào năm 2016. Nhóm nghiên cứu của Viện Weizmann đã gắn thiết bị đo lên đầu một trong những cột buồm của tàu Tara, trong khi tàu đi qua Bắc Đại Tây Dương. Việc xác định và định lượng các vi nhựa có bên trong các mẫu aerosol không hề dễ dàng, vì các hạt này rất khó nhận diện dưới kính hiển vi. Để hiểu chính xác nhựa đang đi vào khí quyển, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đo quang phổ Raman với sự giúp đỡ của Tiến sĩ Iddo Pinkas thuộc Nhóm Hỗ trợ Nghiên cứu Hóa học của Viện để xác định thành phần hóa học và kích thước của chúng. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện hàm lượng cao các loại nhựa phổ biến - polystyrene, polyethylene, polypropylene và nhiều loại khác - trong mẫu thu thập. Sau đó, tính toán hình dạng và khối lượng của các hạt vi nhựa, cùng với hướng và tốc độ gió trung bình trên các đại dương, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguồn gốc của các vi nhựa này rất có thể là túi nhựa và các chất thải nhựa khác đã bị vứt bỏ gần bờ biển, sau đó di chuyển ra khu vực đại dương cách đó hàng trăm kilomet. Kiểm tra nước biển bên dưới các vị trí lấy mẫu cho thấy có cùng một loại nhựa, điều này củng cố cho ý tưởng rằng vi nhựa đi vào khí quyển thông qua các bong bóng trên bề mặt đại dương hoặc được gió cuốn lên và được vận chuyển theo dòng không khí đến các vùng xa hơn của đại dương. Trainic cho biết: “Một khi vi nhựa ở trong khí quyển, chúng khô đi và tiếp xúc với tia UV và các thành phần khí quyển mà chúng tương tác hóa học... Điều đó có nghĩa là các hạt rơi trở lại đại dương có khả năng gây hại hoặc độc hại hơn trước đây đối với bất kỳ sinh vật biển nào ăn phải chúng.” “Trên hết,” Vardi cho biết thêm, “một số loại vi nhựa này trở thành giá đỡ cho sự phát triển của vi khuẩn, vì vậy nhựa trong không khí có thể vận chuyển một số loài, bao gồm cả vi khuẩn gây bệnh có hại cho sinh vật biển và con người.” Trainic cho biết: “Lượng vi nhựa thực sự trong các aerosol gần như chắc chắn lớn hơn những gì mà các phép đo của chúng tôi cho thấy, bởi vì thiết lập của chúng tôi không thể phát hiện ra những hạt đó có kích thước dưới vài micromet... Ví dụ, ngoài nhựa có thể phân hủy thành các mảnh thậm chí còn nhỏ hơn, còn có các hạt nano được thêm vào mỹ phẩm và dễ dàng bị rửa trôi vào đại dương, hoặc các hạt được hình thành trong đại dương thông qua sự phân mảnh vi nhựa.” Kích thước của hạt nhựa rất quan trọng, không chỉ vì những hạt nhẹ hơn có thể ở trong không khí trong thời gian dài hơn. Khi hạ cánh trên mặt nước, chúng có nhiều khả năng bị các sinh vật biển nhỏ ăn vào, tất nhiên là không thể tiêu hóa được. Do đó, mỗi hạt này đều có khả năng gây hại cho sinh vật biển hoặc tác động lên chuỗi thức ăn và xâm nhập vào cơ thể con người. “Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, giống như tất cả các aerosol, vi nhựa dần trở thành một phần của các chu trình hành tinh lớn - như carbon và oxy - khi chúng tương tác với các phần khác của khí quyển,” Koren nói. “Bởi vì vi nhựa có trọng lượng nhẹ và tuổi thọ cao, ngày càng nhiều vi nhựa sẽ được vận chuyển trong không khí hơn khi lượng nhựa đã và đang gây ô nhiễm đại dương vỡ ra", ông nói thêm.
-
Hiện nay, các phương pháp phân tích sử dụng dữ liệu vector được sử dụng phổ biến trong các ứng dụng GIS về quy hoạch, quản lý đất đai, khoáng sản,...Trong đó, phần mềm URSCAPE cung cấp một số chức năn truy vấn, phân tích và trực quan hóa dữ liệu cũng như cho phép trao đổi dữ liệu với các hệ thống khác mà không đòi hỏi người dùng có kiến thức chuyên môn sâu về về các phần mềm chuyên ngành khác như Arcmap, Microstation,...Ưu điểm của URSCAPE là không yêu cầu máy tính có tốc độ cao, cấu hình quá mạnh để vận hành, dễ cài đặt và sử dụng, rất mạnh về phân tích và trực quan hóa dữ liệu, hỗ trợ ra quyết định một cách nhanh chóng. Ngày 7 tháng 12 năm 2021, Trung tâm Ứng dụng Hệ thống thông tin địa lý Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức "Hội thảo đào tạo sử dụng kết quả đề tài "Nghiên cứu, thử nghiệm ứng dụng URSCAPE để phục vụ hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu tài nguyên và môi trường". Nội dung buổi hội thảo tập trung vào các nội dung chính sau đây: - Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng URSCAPE để hỗ trợ ra quyết định bằng phương pháp trực quan hóa và mô phỏng dựa trên dữ liệu kgông gian địa lý đã được chuẩn hóa, chuyển đổi để đưa vào ứng dụng này; - Xây dựng hệ thống tích hợp dữ liệu không gian đa nguồn gốc hỗ trợ ra quyết định quản lý đô thị trên cơ sở các phương pháp trực quan hóa, mô phỏng và phân tích địa lý; - Tham khảo ý kiến đánh giá của người dùng về ưu điểm và nhược điểm từ đó đề xuất hướng phát triển cho các công cụ của URSCAPE.
-
Theo Báo cáo tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, dự kiến đến năm 2030, Việt Nam có khả năng sẽ đạt được cả 3 mục tiêu cụ thể thuộc mục tiêu phát triển bền vững số 13 về các hành động bảo vệ khí hậu. Thực tế trong 5 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực triển khai các hoạt động từ hoàn thiện thể chế chính sách đến tăng cường năng dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát khí hậu và các hoạt động cụ thể để thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH. Việt Nam cập nhật Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng vào năm 2016 và năm 2020, cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2020. Đến nay đã có 52/63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; 7/18 Bộ và 37/63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Bên cạnh nguồn lực trong nước, Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực quốc tế cho các dự án, chương trình liên quan đến biến đổi khí hậu. Trong đó, giai đoạn 2017-2019 đã huy động được 146,5 triệu đô la Mỹ từ Quỹ Khí hậu xanh (GCF). Việt Nam đã tổ chức phổ biến Luật Phòng chống thiên tai và các văn bản dưới luật cho 44 lớp với 1320 cán bộ cấp xã được tập huấn. Mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn được chú ý đầu tư gồm 187 trạm khí tượng bề mặt - 242 trạm thủy văn - 20 trạm hải văn - 10 trạm radar thời tiết - 6 trạm thám không vô tuyến - 8 trạm pilot - 782 trạm đo mưa độc lập. Tuy nhiên, trước diễn biến và tác động của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, đòi hỏi các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục tập trung rà soát, hoàn thiện các văn bản chính sách pháp luật liên quan đến BĐKH đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn về công tác ứng phó với BĐKH. Bên cạnh đó để giám sát khí hậu, cần đầu tư hệ thống quan trắc, hệ thống dự báo khí tượng thủy văn đáp ứng được nhu cầu dự báo, đặc biệt là công nghệ dự báo cực ngắn và dự báo biển. Huy động nguồn lực xã hội để đầu tư cho các hệ thống trên. Hai hoạt động cần thực hiện thường xuyên, liên tục để duy trì các kết quả là tăng cường nâng cao nhận thức về ứng phó với BĐKH cho các cấp, các ngành và người dân, đặc biệt cần chú trọng công tác này hơn nữa tại địa phương; Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm huy động nguồn tài trợ và tăng cường sự phối hợp thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận Paris, các chương trình, đề án, dự án, nhiệm vụ về khí tượng thủy văn và BĐKH.
-
Nguyên tắc khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên và môi trường được công bố trên Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường: - Các dữ liệu được công bố trên Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 73/2017/NĐ-CP và Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND của UBND Thành phố về ban hành quy chế thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu về tài nguyên và môi trường. - Các dữ liệu được công bố trên Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường có thể được khai thác và sử dụng thông qua các dịch vụ Web theo chuẩn mở quốc tế. Nội dung, khối lượng, tần suất dữ liệu được tiếp cận khai thác và sử dụng sẽ phụ thuộc vào quyền hạn được cơ quan thẩm quyền cho phép. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải trích dẫn, ghi nhận thông tin sử dụng dữ liệu trong các sản phẩm, tài liệu liên quan có sử dụng dữ liệu. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được bán dữ liệu đã được khai thác cho tổ chức, cá nhân khác. Khi sử dụng dữ liệu trong sản phẩm, dịch vụ thương mại của mình phải cung cấp miễn phí dữ liệu đã khai thác kèm theo sản phẩm, dịch vụ thương mại đó và trả phí theo quy định (nếu có). - Các dữ liệu được khai thác và sử dụng qua Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường không có giá trị pháp lý trong các giao dịch thủ tục hành chính trong cơ quan Nhà nước. - Cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất hoặc thiệt hại phát sinh của cơ quan, tổ chức, cá nhân do việc sử dụng dữ liệu gây ra.
-
Bản đồ giúp người dân có thể tìm kiếm, phát hiện các vấn đề liên quan đến dịch COVID 19 xung quanh mình hoặc tại một vị trí bất kỳ trên địa bàn thành phố. Đồng thời, người dân cũng có thể tra cứu các thông tin địa điểm khẩu trang, cơ sở y tế, các địa điểm nhu yếu phẩm… để đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Hệ thống cũng cung cấp các công cụ bản đồ phân tích mật độ, thống kê phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý, giám sát, phòng chống dịch. Dữ liệu chuyên môn về phòng chống dịch được cung cấp bởi Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP. Hồ Chí Minh (HCDC) và được cập nhật ngay sau khi có Thông cáo chính thức của HCDC. Sở Thông tin và Truyền thông TP.HCM hy vọng bản đồ là công cụ hỗ trợ phòng chống dịch hiệu quả cho người dân và các nhà quản lý cùng chung tay thành phố phòng chống dịch COVID 19.
-
Cổng thông tin dữ liệu Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh là nơi công bố các dữ liệu do Sở Tài nguyên và môi trường thực hiện nhiệm vụ hàng năm đã quy định tại Nghị định số 73/2017/NĐ-CP và Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND của UBND Thành phố về ban hành quy chế thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu về tài nguyên và môi trường. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 6, Nghị định 73/2017/NĐ-CP về "Sự tham gia của các tổ chức, cá nhân" có ghi rõ: 1. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho việc thu nhận, tạo lập và cung cấp, chia sẻ thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường đúng quy định của pháp luật. 2. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân cung cấp, hiến tặng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường cho cơ quan nhà nước góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, phục vụ lợi ích chung của xã hội. Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu công bố, chia sẻ dữ liệu tại Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường nhằm quảng bá, đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố xin vui lòng liên hệ với Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường để được hướng dẫn theo đúng quy định.
-
Ngày 11/1/2017, UBND Thành phố ban hành Quyết định số 95/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Công nghệ thông tin Tài nguyên và Môi trường trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường. Trung tâm có chức năng thực hiện các hoạt động về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường thuộc phạm vi quản lý của Sở; tổ chức thực hiện các dịch vụ công về công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật. Trung tâm chịu sự chỉ đạo, quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường về tổ chức, số lượng người làm việc và hoạt động; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Cục Công nghệ Thông tin trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường là đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng, vận hành Cổng thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường, đồng thời có trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên và môi trường theo đúng quy định pháp luật.
-
Dữ liệu ranh thửa đất Phường 9, Quận 6, TP. Hồ Chí Minh, được xây dựng năm 2014 trong công tác "Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đất đai thành phố Hồ Chí Minh" theo Quyết định số 5946/QĐ-UBND ngày 29/12/2009, CSDL địa chính của công tác này được xây dựng từ các nguồn: hồ sơ dữ liệu đất đai từ trước 1975, hồ sơ đất đai theo quyết định 6280/QĐ-UB-QLĐT, kết quả tổng điều tra kê khai đăng ký nhà đất năm 1999, sổ điều tra điền dã - tổng kiểm kê đất đai 2010, hồ sơ GCNQSDĐ được cấp theo các quyết định 38/2002/QĐ-UB-ĐT, 04/2003/QĐ-UB, 90/2004/QĐ-UB và 54/2007/QĐ-UBND, bản đồ bằng khoán trước 1975, bản đồ giải thửa 299/TTg, bản đồ địa chính 02/CT-UB, sơ đồ nền và bản đồ địa chính chính quy. Cơ sở dữ liệu địa chính được lưu trữ dưới dạng ESRI GeoDatabase theo phần mềm VILIS của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thực hiện kế hoạch nhiệm vụ về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu TN&MT năm 2018 theo Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, chia sẻ và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (theo quy định của (Nghị định số 73/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2017 của Chính phủ về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường), Dữ liệu ranh thửa phường 9 được trích xuất từ CSDL địa chính (VILIS) nói trên và chuẩn hóa, đưa vào lưu trữ, quản lý và cung cấp các dịch vụ Web trực tuyến để phục vụ kịp thời nhu cầu của ngành TN&MT, các Sở ban ngành khác và các dự án liên quan trong việc triển khai Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thành phố Thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025” của Thành phố và các dự án, công trình khác có liên quan. Các dịch vụ Web đều tuân thủ các tiêu chuẩn do Nhà nước quy định, chuẩn mở quốc tế như OGC WMS, OGC WFS, TMS, WMTS, KML, GeJson, GML, ... đáp ứng hệ tọa độ VN2000 Thành phố Hồ Chí Minh và WGS84 toàn cầu. Độ chính xác của dữ liệu ranh thửa phường 9 tương đương tỷ lệ 1/200 (32 mảnh) tùy thuộc vào từng khu vực (Liên hệ với đơn vị chức năng để biết thêm chi tiết).
-
Dữ liệu ranh thửa đất Phường Bình Hưng Hòa A, Quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh, được xây dựng năm 2014 trong công tác "Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đất đai thành phố Hồ Chí Minh" theo Quyết định số 5946/QĐ-UBND ngày 29/12/2009, CSDL địa chính của công tác này được xây dựng từ các nguồn: hồ sơ dữ liệu đất đai từ trước 1975, hồ sơ đất đai theo quyết định 6280/QĐ-UB-QLĐT, kết quả tổng điều tra kê khai đăng ký nhà đất năm 1999, sổ điều tra điền dã - tổng kiểm kê đất đai 2010, hồ sơ GCNQSDĐ được cấp theo các quyết định 38/2002/QĐ-UB-ĐT, 04/2003/QĐ-UB, 90/2004/QĐ-UB và 54/2007/QĐ-UBND, bản đồ bằng khoán trước 1975, bản đồ giải thửa 299/TTg, bản đồ địa chính 02/CT-UB, sơ đồ nền và bản đồ địa chính chính quy. Cơ sở dữ liệu địa chính được lưu trữ dưới dạng ESRI GeoDatabase theo phần mềm VILIS của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thực hiện kế hoạch nhiệm vụ về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu TN&MT năm 2018 theo Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, chia sẻ và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (theo quy định của (Nghị định số 73/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2017 của Chính phủ về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường), Dữ liệu ranh thửa phường Bình Hưng Hòa A được trích xuất từ CSDL địa chính (VILIS) nói trên và chuẩn hóa, đưa vào lưu trữ, quản lý và cung cấp các dịch vụ Web trực tuyến để phục vụ kịp thời nhu cầu của ngành TN&MT, các Sở ban ngành khác và các dự án liên quan trong việc triển khai Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thành phố Thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025” của Thành phố và các dự án, công trình khác có liên quan. Các dịch vụ Web đều tuân thủ các tiêu chuẩn do Nhà nước quy định, chuẩn mở quốc tế như OGC WMS, OGC WFS, TMS, WMTS, KML, GeJson, GML, ... đáp ứng hệ tọa độ VN2000 Thành phố Hồ Chí Minh và WGS84 toàn cầu. Độ chính xác của dữ liệu ranh thửa phường Bình Hưng Hòa A tương đương tỷ lệ 1/200 (270 mảnh),1/500 (21 mảnh) và 1/1000 (4 mảnh) tùy thuộc vào từng khu vực (Liên hệ với đơn vị chức năng để biết thêm chi tiết).