From 1 - 8 / 8
  • Ngày 30 tháng 6 năm 2021 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BTNMT về Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

  • Categories      

    Việt Nam là quốc gia có hệ thống sông ngòi dày đặc với tổng lượng dòng chảy nước mặt hàng năm lên đến 830-840 tỷ m3. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ là quốc gia có nguồn tài nguyên nước trung bình trên thế giới, với nhiều yếu tố không bền vững. Tổng lượng nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm khoảng 63%. Chất lượng nước tại một số lưu vực sông của Việt Nam đang bị suy thoái, ô nhiễm bởi nhiều nguyên nhân. Mặc dù chính quyền các cấp cũng như cộng đồng, xã hội đã có nhiều nỗ lực trong công tác bảo vệ môi trường trên các lưu vực sông, nhưng với nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng do quá trình phát triển KT - XH, áp lực của sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ trong những năm qua đã tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nguồn nước các lưu vực sông. Với mục tiêu cung cấp một cách nhìn tổng quan về chất lượng nước trên các lưu vực sông chính, đánh giá các nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm và suy thoái nguồn nước trên các lưu vực sông ở nước ta trong thời gian qua, cũng như đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho các vấn đề này trong thời gian tới, Bộ TN&MT đã chọn “Môi trường nước các lưu vực sông” là chủ đề của Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018. Báo cáo tập trung phân tích hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường nước của 12 lưu vực sông đặc trưng trên toàn quốc với các số liệu đánh giá trong giai đoạn 2014 - 2018. Báo cáo được hoàn thiện với sự tham gia đóng góp ý kiến của các Bộ, ngành và địa phương trên cả nước, các cán bộ quản lý, nhà khoa học và các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng.

  • Việc phát hiện ra vi nhựa trong không khí trên đại dương cho thấy sự lây lan của ô nhiễm nguy hiểm này. Khi nhựa trong đại dương của chúng ta vỡ ra thành các mảnh nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa mà không bị phân hủy về mặt hóa học, các vi nhựa được tạo thành đang trở thành một vấn đề sinh thái nghiêm trọng. Một nghiên cứu mới tại Viện Khoa học Weizmann cho thấy một khía cạnh đáng lo ngại của vi nhựa (được định nghĩa là các hạt có đường kính nhỏ hơn 5mm), chúng bị cuốn vào bầu khí quyển và theo gió đến những vùng xa xôi của đại dương. Phân tích cho thấy những mảnh vụn nhỏ như vậy có thể tồn tại trong không khí trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày, phát tán khả năng gây hại cho môi trường biển, cũng như xâm nhập vào chuỗi thức ăn gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Tiến sĩ Miri Trainic, trong nhóm nghiên cứu của Giáo sư Ilan Koren từ Phòng Khoa học Trái đất và Hành tinh, phối hợp với Giáo sư Yinon Rudich và Giáo sư Assaf Vardi từ Phòng Khoa học Cây trồng và Môi trường của Viện Khoa học Weizmann cho biết: “Một số nghiên cứu đã tìm thấy vi nhựa trong khí quyển ngay trên mặt nước gần bờ biển... Nhưng chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi tìm thấy một lượng vi nhựa không hề nhỏ bên trên khu vực mặt nước tưởng như nguyên sơ”. Giáo sư Koren và Giáo sư Vardi đã hợp tác với nhau trong các nghiên cứu tìm hiểu sự tương tác giữa đại dương và không khí. Trong khi cách các đại dương hấp thụ vật chất từ ​​khí quyển đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, quá trình theo hướng ngược lại – các sol khí (aerosol) trong đó có các chất bay hơi, vi rút, mảnh tảo và các hạt khác bị cuốn từ nước biển vào khí quyển – lại ít được nghiên cứu hơn nhiều. Là một phần của nỗ lực không ngừng này, các mẫu aerosol đã được thu thập để nghiên cứu bằng tàu nghiên cứu khoa học Tara vào năm 2016. Nhóm nghiên cứu của Viện Weizmann đã gắn thiết bị đo lên đầu một trong những cột buồm của tàu Tara, trong khi tàu đi qua Bắc Đại Tây Dương. Việc xác định và định lượng các vi nhựa có bên trong các mẫu aerosol không hề dễ dàng, vì các hạt này rất khó nhận diện dưới kính hiển vi. Để hiểu chính xác nhựa đang đi vào khí quyển, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đo quang phổ Raman với sự giúp đỡ của Tiến sĩ Iddo Pinkas thuộc Nhóm Hỗ trợ Nghiên cứu Hóa học của Viện để xác định thành phần hóa học và kích thước của chúng. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện hàm lượng cao các loại nhựa phổ biến - polystyrene, polyethylene, polypropylene và nhiều loại khác - trong mẫu thu thập. Sau đó, tính toán hình dạng và khối lượng của các hạt vi nhựa, cùng với hướng và tốc độ gió trung bình trên các đại dương, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng nguồn gốc của các vi nhựa này rất có thể là túi nhựa và các chất thải nhựa khác đã bị vứt bỏ gần bờ biển, sau đó di chuyển ra khu vực đại dương cách đó hàng trăm kilomet. Kiểm tra nước biển bên dưới các vị trí lấy mẫu cho thấy có cùng một loại nhựa, điều này củng cố cho ý tưởng rằng vi nhựa đi vào khí quyển thông qua các bong bóng trên bề mặt đại dương hoặc được gió cuốn lên và được vận chuyển theo dòng không khí đến các vùng xa hơn của đại dương. Trainic cho biết: “Một khi vi nhựa ở trong khí quyển, chúng khô đi và tiếp xúc với tia UV và các thành phần khí quyển mà chúng tương tác hóa học... Điều đó có nghĩa là các hạt rơi trở lại đại dương có khả năng gây hại hoặc độc hại hơn trước đây đối với bất kỳ sinh vật biển nào ăn phải chúng.” “Trên hết,” Vardi cho biết thêm, “một số loại vi nhựa này trở thành giá đỡ cho sự phát triển của vi khuẩn, vì vậy nhựa trong không khí có thể vận chuyển một số loài, bao gồm cả vi khuẩn gây bệnh có hại cho sinh vật biển và con người.” Trainic cho biết: “Lượng vi nhựa thực sự trong các aerosol gần như chắc chắn lớn hơn những gì mà các phép đo của chúng tôi cho thấy, bởi vì thiết lập của chúng tôi không thể phát hiện ra những hạt đó có kích thước dưới vài micromet... Ví dụ, ngoài nhựa có thể phân hủy thành các mảnh thậm chí còn nhỏ hơn, còn có các hạt nano được thêm vào mỹ phẩm và dễ dàng bị rửa trôi vào đại dương, hoặc các hạt được hình thành trong đại dương thông qua sự phân mảnh vi nhựa.” Kích thước của hạt nhựa rất quan trọng, không chỉ vì những hạt nhẹ hơn có thể ở trong không khí trong thời gian dài hơn. Khi hạ cánh trên mặt nước, chúng có nhiều khả năng bị các sinh vật biển nhỏ ăn vào, tất nhiên là không thể tiêu hóa được. Do đó, mỗi hạt này đều có khả năng gây hại cho sinh vật biển hoặc tác động lên chuỗi thức ăn và xâm nhập vào cơ thể con người. “Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, giống như tất cả các aerosol, vi nhựa dần trở thành một phần của các chu trình hành tinh lớn - như carbon và oxy - khi chúng tương tác với các phần khác của khí quyển,” Koren nói. “Bởi vì vi nhựa có trọng lượng nhẹ và tuổi thọ cao, ngày càng nhiều vi nhựa sẽ được vận chuyển trong không khí hơn khi lượng nhựa đã và đang gây ô nhiễm đại dương vỡ ra", ông nói thêm.

  • Theo Báo cáo tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, dự kiến đến năm 2030, Việt Nam có khả năng sẽ đạt được cả 3 mục tiêu cụ thể thuộc mục tiêu phát triển bền vững số 13 về các hành động bảo vệ khí hậu. Thực tế trong 5 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực triển khai các hoạt động từ hoàn thiện thể chế chính sách đến tăng cường năng dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát khí hậu và các hoạt động cụ thể để thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH. Việt Nam cập nhật Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng vào năm 2016 và năm 2020, cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2020. Đến nay đã có 52/63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; 7/18 Bộ và 37/63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Bên cạnh nguồn lực trong nước, Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực quốc tế cho các dự án, chương trình liên quan đến biến đổi khí hậu. Trong đó, giai đoạn 2017-2019 đã huy động được 146,5 triệu đô la Mỹ từ Quỹ Khí hậu xanh (GCF). Việt Nam đã tổ chức phổ biến Luật Phòng chống thiên tai và các văn bản dưới luật cho 44 lớp với 1320 cán bộ cấp xã được tập huấn. Mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn được chú ý đầu tư gồm 187 trạm khí tượng bề mặt - 242 trạm thủy văn - 20 trạm hải văn - 10 trạm radar thời tiết - 6 trạm thám không vô tuyến - 8 trạm pilot - 782 trạm đo mưa độc lập. Tuy nhiên, trước diễn biến và tác động của biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, đòi hỏi các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục tập trung rà soát, hoàn thiện các văn bản chính sách pháp luật liên quan đến BĐKH đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn về công tác ứng phó với BĐKH. Bên cạnh đó để giám sát khí hậu, cần đầu tư hệ thống quan trắc, hệ thống dự báo khí tượng thủy văn đáp ứng được nhu cầu dự báo, đặc biệt là công nghệ dự báo cực ngắn và dự báo biển. Huy động nguồn lực xã hội để đầu tư cho các hệ thống trên. Hai hoạt động cần thực hiện thường xuyên, liên tục để duy trì các kết quả là tăng cường nâng cao nhận thức về ứng phó với BĐKH cho các cấp, các ngành và người dân, đặc biệt cần chú trọng công tác này hơn nữa tại địa phương; Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm huy động nguồn tài trợ và tăng cường sự phối hợp thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận Paris, các chương trình, đề án, dự án, nhiệm vụ về khí tượng thủy văn và BĐKH.

  • Việt Nam có lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ tuyến, địa hình đa dạng và phức tạp, nên có sự khác biệt khá lớn về khí hậu giữa các vùng miền. Việt Nam hằng năm hứng chịu tác động của nhiều loại hình thiên tai có nguồn gốc khí tượng thủy văn gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khí hậu diễn biến bất thường kèm theo các thiên tai mang tính cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của người dân và ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế đất nước. Báo cáo Đánh giá khí hậu quốc gia được Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng nhằm hỗ trợ các nhà quản lý và người dân hiểu rõ hơn về đặc điểm, hiện trạng và mức độ thay đổi của khí hậu. Báo cáo đã phân tích những tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai, qua đấy có thể thấy Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Báo cáo cũng đã nhận định về những nỗ lực, thành quả và thiếu hụt trong ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam. Báo cáo Đánh giá khí hậu quốc gia sẽ là tài liệu cung cấp thông tin hữu ích cho việc xây dựng, triển khai thực hiện các kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, hỗ trợ cho việc lồng ghép ứng phó với biến đổi khí hậu vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành và địa phương.

  • Trong những năm qua, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Đảng, Quốc hội và Chính phủ luôn quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) gắn với bảo vệ môi trường (BVMT) và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo tiền đề tốt để tăng cường công tác BVMT thời gian tới. Tuy nhiên, do sự phát triển KT-XH, quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số đang diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra áp lực lớn tới môi trường khi lượng chất thải rắn (CTR) nói chung và đặc biệt chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) nói riêng đang phát sinh ngày càng nhiều. Trong khi đó, việc kiểm soát, quản lý loại chất thải này còn nhiều hạn chế, dẫn đến nguy cơ gây ra tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, môi trường sống và sức khỏe con người. Thực hiện Nghị quyết của Chính phủ số 09/NQ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) đã phối hợp với 63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành tổng rà soát, kiểm tra đánh giá thực trạng công tác quản lý CTR trên toàn quốc, trong đó trọng tâm là CTRSH và hoàn thiện báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia với chủ đề Chất thải rắn sinh hoạt. Với mục đích đưa ra những đánh giá tổng thể và toàn diện về bối cảnh phát triển KT-XH trong nước và quốc tế, thực trạng công tác quản lý CTRSH và những tồn tại, khó khăn và thách thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể theo hướng thống nhất, nhằm mục tiêu quản lý CTRSH tốt hơn, giảm tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời gian tới. Báo cáo được xây dựng với sự tham gia đóng góp của một số Bộ, ngành và các địa phương trong cảnước, các cán bộ quản lý, nhà khoa học và chuyên gia trong lĩnh vực môi trường và quản lý CTRSH.

  • Categories      

    Ngày 5/12/2021, Bộ Tài chính cho biết vừa hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản. Trên cơ sở quan điểm mức phí bảo vệ môi trường phải căn cứ vào khối lượng chất thải ra môi trường và mức độ ô nhiễm trong quá trình khai thác khoáng sản gây ra, Bộ Tài chính cho rằng, các quy định hiện hành phát sinh một số vấn đề cần hoàn thiện. Mục đích chính là từng bước hạn chế tác động xấu đến môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản. Hiện nay, quy định khung mức phí đối với sỏi, cuội, sạn, cát, đất sét, đá… là từ 1.500 - 1.600 đồng/m3. Theo Bộ Tài chính, mức phí này còn thấp, chưa khuyến khích sử dụng vật liệu khác thay thế. Do vậy, đơn vị này đề xuất trình Chính phủ điều chỉnh tăng khung mức phí đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. Mức phí tối thiểu bằng mức phí tối đa hiện hành và mức phí tối đa bằng 200% mức phí hiện hành. Cụ thể, mức phí từ 2.000 -12.000 đồng/m3, tùy loại khoáng sản trong khi mức hiện hành là từ 1.000 – 6.000 đồng/m3. Bên cạnh đó, để khuyến khích tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản sử dụng đất đá bốc xúc thải ra để cải tạo, phục hồi môi trường, Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định miễn thu phí đối với việc sử dụng đất đá bốc xúc để cải tạo, phục hồi môi trường. Đồng thời, miễn thu phí với tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó. Tổ chức, cá nhân khai thác đất đá để san lấp, xây dựng công trình an ninh, quân sự, phòng chống thiên tai, khắc phục thiên tai. Theo thống kê, số thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách. Số thu phí năm 2017 là 3.029 tỉ đồng; năm 2018 là 3.448 tỉ đồng; năm 2019 là 3.737 tỉ đồng; năm 2020 là 3.576 tỉ đồng.

  • Lần đầu tiên, các nhà khoa học Việt Nam đã sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu từ trạm quan trắc tiêu chuẩn, thiết bị cảm biến tới dữ liệu vệ tinh để đưa ra báo cáo đầy đủ về cả không gian và thời gian phản ánh hiện trạng ô nhiễm không khí do bụi mịn PM2.5 trên phạm vi toàn quốc. Bức tranh đầu tiên về hiện trạng bụi mịn PM2.5 trên toàn quốc Trước đây, chúng ta đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo liên quan đến hiện hiện trạng bụi PM2.5. Tuy nhiên, các nghiên cứu, báo cáo này còn nhiều hạn chế về nguồn dữ liệu và chưa khai thác các nguồn dữ liệu mở (như vệ tinh và các mạng lưới thiết bị cảm biến). Chính vì vậy, kết quả thu được chỉ dừng lại ở phạm vị không gian, thời gian hẹp về tình trạng ô nhiễm không khí do bụi mịn PM2.5. Khắc phục tình trạng này, nhóm nghiên cứu đến từ Trung tâm Sống và Học tập vì Môi trường và Cộng đồng, Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam… vừa công bố báo cáo “Hiện trạng bụi PM2.5 ở Việt Nam giai đoạn 2019-2020 sử dụng dữ liệu đa nguồn”, đã đưa ra một bức tranh đầy đủ hơn về ô nhiễm không khí cả về không gian và thời gian. Đây là báo cáo đầu tiên cung cấp thông tin hiện trạng bụi PM2.5 không chỉ tại thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà của tất cả 63 tỉnh/thành phố. Theo báo cáo, chất lượng không khí toàn quốc năm 2020 có phần cải thiện hơn so với 2019. Tuy nhiên, nếu so sánh với nồng độ bụi PM2.5 theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2021 (5 µg/m3) và năm 2005 (10 µg/m3), nồng độ bụi PM2.5 của tất cả các tỉnh, thành phố trên toàn quốc trong giai đoạn 2019 – 2020 đều vượt nhiều lần các mức khuyến nghị này. Trong đó, đồng bằng sông Hồng (Hà Nội và các tỉnh lân cận), Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh , TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương là các vùng có nồng độ bụi PM2.5 cao nhất trong cả nước. Hà Nội là thành phố đứng thứ 6 trong xếp hạng các tỉnh, thành phố có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm 2020 cao nhất. Tại TP. Hồ Chí đứng thứ 11 trong xếp hạng toàn quốc. So với quy chuẩn quốc gia QCVN 05:2013/BTNMT (25 µg/m3) thì miền bắc có 10/25 tỉnh thành có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm toàn tỉnh vượt quy chuẩn, bao gồm Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc. Miền trung và miền nam không có tỉnh, thành phố nào có nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm 2020 toàn tỉnh vượt quy chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, trên địa bàn các tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An (miền trung) và TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai (miền nam), vẫn có nhiều khu vực địa phương đang chịu ô nhiễm bụi PM2.5. Các dữ liệu tổng hợp cho thấy giãn cách xã hội do đại dịch COVID-19 đã phần nào giúp cải thiện chất lượng không khí toàn quốc và hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Kết hợp nhiều công nghệ quan trắc: Theo các nhà nghiên cứu, mỗi phương pháp quan trắc (quan trắc bằng thiết bị lấy mẫu, hay bằng vệ tinh, trạm tiêu chuẩn và thiết bị cảm biến) đều có những ưu điểm và hạn chế riêng về chất lượng dữ liệu, độ phủ của thiết bị, chi phí... Chính vì vậy, để làm dày dặn cơ sở dữ liệu chất lượng không khí, Việt Nam cần kết hợp nhiều công nghệ trong quan trắc. Trong đó, cần tập trung vào ứng dụng tiếp cận đa nguồn và dữ liệu mô hình tính toán từ ảnh vệ tinh trong giám sát chất lượng không khí nhằm đưa ra bức tranh về hiện trạng môi trường không khí ở cấp quốc gia, vùng miền và tỉnh, thành. Đồng thời, tăng cường mạng lưới trạm quan trắc chất lượng không khí tiêu chuẩn của nhà nước trên phạm vi toàn quốc, ưu tiên cho các tỉnh, thành phố có chất lượng không khí; Thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong quan trắc bụi PM2.5 và các chất ô nhiễm không khí khác. Ngoài ra, PGS. TS Nguyễn Thị Nhật Thanh - Trường Đại học Công nghệ - ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh các nghiên cứu để xác định đóng góp nguồn thải bụi PM2.5 và cho các chất ô nhiễm không khí khác, đặc biệt ở các tỉnh, thành phố đang bị ô nhiễm bụi như kết quả báo cáo nêu ra, từ đó có chính sách phù hợp và hiệu quả trong kiểm soát các nguồn thải chính. Đặc biệt cần xây dựng bản đồ phân bố bụi PM2.5 chi tiết tới từng quận/huyện/thị xã tại các tỉnh, thành phố có ô nhiễm bụi PM2.5 nhằm hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước đưa ra các ưu tiên, mục tiêu cụ thể và giải pháp quản lý chất lượng không khí phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.